Phát triển mô hình kinh doanh thép hình như thế nào?

Ngày đăng: 04/04/2020 - Tác giả:

Để hiểu rõ hơn về việc Phát triển mô hình kinh doanh thép hình ta cần phải biết ngành thép trong nước đang sử dụng mô hình kinh doanh gì?

Phát triển mô hình kinh doanh thép hình như thế nào?

Phát triển mô hình kinh doanh thép hình như thế nào?

Phát triển mô hình kinh doanh thép hình theo 5 áp lực. Và dưới đây là một số phân tích về mô hình kinh doanh thép hình:

Nhà cung cấp

» Áp lực ở mức trung bình

Mức độ tập trung của các nhà cung cấp thấp do ác nhà cung cấp thép và nguyên liệu cho ngành thép phân bố ở nhiều nước trên thế giới, hơn nữa không có tình trạng độc quyền bán do không có doanh nghiệp nào nắm độc quyền trong lĩnh vực này.

Phát triển mô hình kinh doanh thép hình

Người mua có thể lựa chọn một hoặc nhiều nhà cung cấp đầu vào cho sản xuất bởi vì thép và nguyên liệu cho ngành thép không phải là các hàng hoá đặc biệt. Tuy nhiên khả năng đàm phán về giá của các doanh nghiệp Việt Nam cũng thấp, hầu như hoàn toàn chịu biến động của giá thị trường thế giới chỉ với 50% phôi phải nhập khẩu. Áp lực từ phía nhà cung cấp đối với các doanh nghiệp trong ngành thép Việt Nam có thể thấy ở mức trung bình.

Khách hàng

» Áp lực từ mức trung bình đến cao

Các cá nhân, doanh nghiệp xây dựng và doanh nghiệp sản xuất máy móc công nghiệp là các khách hàng chủ yếu tiêu thụ thép trong đó, do không có nhiều thông tin về chất lượng sản phẩm và giá thép hình cũng như khả năng đàm phán giá thấp nên áp lực từ khách hàng cá nhân không lớn . Khách hàng doanh nghiệp thì ngược lại, tạo áp lực lớn do các yếu tố sau:

+ Nhiều lợi ích với doanh nghiệp được mang lại bởi khối lượng đặt mua lớn và việc ký được hợp đồng cung cấp dài hạn với khách hàng.

+ Nhiều thông tin về giá cả, chất lượng sản phẩm mà khách hàng doanh nghiệp thường có dẫn tới đó là khả năng đàm phán giá cao, cũng như việc lựa chọn và thay đổi nhà cung cấp dễ dàng.

+ Nguồn cung trên thị trương thép xây dựng: hiện đã dư thừa so với nhu cầu tiêu thụ. Có khả năng nguồn cung thép dẹt cũng thừa đáp ứng nhu cầu do thép dẹt hiện chưa đáp ứng đủ nhu cầu nhưng từ năm 2013 trở đi.

Như vậy có thể thấy, tạo áp lực rất lớn cho các doanh nghiệp bởi sức mạnh của nhóm khách hàng này khá cao, điều này trong việc cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá bán để có thể thu hút và giữ chân các khách hàng lớn và truyền thống, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh.

Đối thủ tiềm ẩn

» Áp lực cạnh tranh rất cao

Phát triển mô hình kinh doanh thép hình

Do chính sách thu hút vốn đầu tư của Nhà nước và những lỏng lẻo về quy định pháp luật của Việt Nam khiến cho khả năng gia nhập ngành thép của các đối thủ tiềm ẩn cao. Làm gia tăng số lượng doanh nghiệp trong ngành, tăng khối lượng sản phẩm và tính cạnh tranh của ngành là do việc tiếp nhận các dự án đầu tư do các địa phương thực hiện, không có khả năng thẩm định về năng lực vốn cũng như chưa có các quy định rõ ràng về công nghệ và cam kết về môi trường với các dự án.

Về giá thép và chất lượng, do có lợi thế về vốn lớn và công nghệ, các doanh nghiệp gia nhập về sau có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp cũ .

Sản phẩm thay thế

» Áp lực cạnh tranh không cao

Người ta thường ví thép như là lương thực của mọi ngành công nghiệp. Chưa có nhiều nguồn tài nguyên hay chất liệu khác để thay thế thép hiện nay trong xây dựng, chế tạo máy móc công nghiệp hay trong quốc phòng. Cho nên đối với ngành thép áp lực về sản phẩm thay thế rất ít.

Lời kết

Áp lực cạnh tranh nội bộ ngành giữa các doanh nghiệp sản xuất thép xây dựng ngày càng gay gắt Một số phương pháp phát triển mô hình kinh doanh thép hình: Doanh nghiệp chủ động nắm bắt thời cơ Xu thế toàn cầu hóa, thương mại điện tử xóa bỏ mọi khoảng cách theo nhận định bởi các chuyên gia chính là cơ hội cho các doanh nghiệp hòa nhập nhanh chóng với cách mạng công nghiệp 4.0 và giúp cho khoảng cách về trình độ sản xuất của Việt Nam với các nước có nền công nghiệp phát triển rút ngắn .

Xây dựng chiến lược phát triển lâu dài một trong những thách thức mà ngành Vật liệu xây dựng Việt Nam đang phải đối mặt, theo Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng), chính là việc đầu tư cho khoa học công nghệ trong nghiên cứu, ứng dụng, sản xuất phát triển sản xuất Vật liệu xây dựng chưa tương xứng, áp dụng khoa học công nghệ tại doanh nghiệp và các viện nghiên cứu còn thấp, chưa có những sản phẩm Vật liệu xây dựng mới, mang tính đột phá, tiên phong bắt kịp xu hướng cách mạng công nghiệp 4.0. Nguồn vốn hàng năm đầu tư cho nghiên cứu khoa học chưa cao